Tim bẩm sinh là gì? Các công bố khoa học về Tim bẩm sinh

Tim bẩm sinh là tình trạng bất thường hoặc dị tật từ khi mới sinh của tim. Đây là một loại bệnh tim mà một số phần của tim không phát triển hoặc hình dạng của t...

Tim bẩm sinh là tình trạng bất thường hoặc dị tật từ khi mới sinh của tim. Đây là một loại bệnh tim mà một số phần của tim không phát triển hoặc hình dạng của tim bị biến đổi so với bình thường. Có nhiều loại tim bẩm sinh khác nhau, ví dụ như tim vách ngăn không hoàn chỉnh, động mạch đại thiên vành sai chỗ, van tim không hoàn chỉnh hoặc không đầy đủ, vv. Tùy thuộc vào tình trạng tim bẩm sinh cụ thể, nó có thể gây ra các triệu chứng như mệt mỏi, khó thở, đau ngực hoặc có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng khác như suy tim hoặc nguy cơ đột quỵ. Việc điều trị tim bẩm sinh được thực hiện thông qua các phương pháp phẫu thuật hoặc thuốc khác nhau tùy thuộc vào tình trạng cụ thể của bệnh nhân.
Tim bẩm sinh là tình trạng mà tim của một người không hình thành hoặc phát triển đúng cách khi trong quá trình phát triển thai nhi trong tử cung. Đây là một loại bệnh tim phổ biến, ảnh hưởng đến khoảng 1% dân số.

Có nhiều loại tim bẩm sinh khác nhau, gồm:

1. Tim vách ngăn không hoàn chỉnh: Một số phần của vách ngăn giữa hai buồng tim không phát triển đúng cách hoặc có lỗ hổng. Điều này làm cho máu ở hai buồng tim có thể trộn lẫn vào nhau, làm giảm chất lượng oxy máu.

2. Động mạch đại thiên vành sai chỗ: Động mạch đại thiên vành (hiệp động mạch) không nằm ở vị trí bình thường, gây ra hiện tượng máu không thể luồn qua các chiếc van (biệt huyết) một cách trơn tru, gây ra tình trạng thiếu oxy cho cơ thể.

3. Van tim không hoàn chỉnh hoặc không đầy đủ: Van tim không đóng mở hoàn toàn hoặc không hình thành đúng cách, gây ra sự liên tục hoặc ngắn hạn trong việc trào ngược máu.

4. Tim toàn diện: Tim quá nhỏ hoặc quá lớn, gây ra sự mất cân đối về kích thước và hình dạng.

Triệu chứng của tim bẩm sinh có thể khác nhau tùy thuộc vào loại bệnh và mức độ nghiêm trọng của tình trạng tim. Một số triệu chứng phổ biến có thể bao gồm mệt mỏi dễ dàng, khó thở khi tập thể dục hoặc hoạt động, nhịp tim không đều, đau ngực, thiếu máu, hay da xanh tái.

Điều trị tim bẩm sinh phụ thuộc vào tình trạng cụ thể của bệnh nhân. Một số trường hợp cần phẫu thuật để chỉnh sửa lỗi tim, sửa chữa hay thay thế các thành phần bất thường. Các phương pháp phẫu thuật phổ biến bao gồm khâu vá lỗ hổng tim, thay van tim, hoặc thực hiện phẫu thuật tái hình thành tim. Thuốc có thể được sử dụng như một phương pháp hỗ trợ hoặc điều trị cho những trường hợp nhẹ hơn. Thông qua sự theo dõi định kỳ và chế độ dinh dưỡng lành mạnh, những người bị tim bẩm sinh có thể sống một cuộc sống khỏe mạnh và hoạt động bình thường.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tim bẩm sinh":

Loạn nhịp tim ở bệnh nhân mắc bệnh tim bẩm sinh Dịch bởi AI
Cardiac Electrophysiology Review - Tập 6 - Trang 422-430 - 2002
Kết quả phẫu thuật cải thiện cho bệnh nhân mắc bệnh tim bẩm sinh (CHD) đã tạo ra một nhóm bệnh nhân thanh thiếu niên và người trưởng thành sống sót ngày càng tăng. Các loạn nhịp tim là một di chứng phổ biến muộn của dạng bệnh tim này. Điều trị hiệu quả yêu cầu phải hiểu rõ những khiếm khuyết giải phẫu cơ bản cũng như các can thiệp phẫu thuật cụ thể. Loạn nhịp nhĩ tái nhập (IART) là loạn nhịp tim phổ biến nhất và khó điều trị nhất mà các bệnh nhân này gặp phải. Điều trị IART bằng thuốc truyền thống chủ yếu không thành công, nhưng đốt sóng radio tần số cao đã nổi lên trong những năm gần đây như một lựa chọn đầy hứa hẹn cho nhiều bệnh nhân. Sự có mặt của các hệ thống lập bản đồ ba chiều và ống thông đốt có tip tưới mát đã cải thiện tỷ lệ thành công cấp tính cho IART lên tới hơn 90%. Sự tái phát IART sau khi đốt vẫn là một vấn đề đối với những bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật Fontan, trong trường hợp đó, phẫu thuật mê thất có thể được xem xét. Loạn nhịp thất (VT) được thấy ở một số ít bệnh nhân CHD, đặc biệt là những người bị tứ chứng Fallot hoặc hẹp động mạch chủ. Việc áp dụng liệu pháp khử rung tim cấy ghép (ICD) cho những bệnh nhân này đã cải thiện kết quả điều trị. Do cấu trúc giải phẫu phức tạp, nhóm bệnh nhân CHD gặp phải những thách thức độc đáo trong cả quá trình thông tim và cấy ghép thiết bị. Cần thực hiện nghiên cứu đa trung tâm cho nhóm bệnh nhân đặc biệt này nhằm phát triển các hướng dẫn điều trị khách quan hơn.
#bệnh tim bẩm sinh #loạn nhịp tim #IART #đốt sóng radio #phẫu thuật Fontan #khử rung tim cấy ghép #phẫu thuật mê thất
Khuyết Tật Tim Bẩm Sinh và Hiện Tượng Sinh Đôi Dịch bởi AI
Cambridge University Press (CUP) - Tập 33 Số 1 - Trang 61-69 - 1984
Tóm tắt

Phân tích sơ bộ về cặp sinh đôi hoặc sinh ba có khuyết tật tim, được xác định tại năm trung tâm, xác nhận những gợi ý trước đây rằng cặp sinh đôi đơn trứng (MZ) có tỷ lệ xuất hiện cao hơn trong số các cặp sinh đôi có khuyết tật tim, ngay cả sau khi loại trừ ống động mạch còn tồn tại và sinh đôi dính liền. Một cá thể sinh đôi MZ có nguy cơ dị tật tim mạch cao gấp khoảng hai lần so với sinh đôi dị trứng (DZ) và trẻ đơn sinh. Có giả thuyết cho rằng quá trình sinh đôi ảnh hưởng đến một trong hai cá thể. Sự rối loạn về tính đối xứng (‘hình ảnh gương’) có thể là cơ chế quan trọng hơn so với truyền máu giữa các cặp sinh đôi. Việc sử dụng phương pháp sinh đôi không phù hợp trong quá khứ đã gây ra sự đánh giá thấp về tầm quan trọng của các yếu tố di truyền trong sinh lý bệnh của khuyết tật tim bẩm sinh. Tuy nhiên, sinh đôi vẫn cung cấp một minh chứng hữu ích về tầm quan trọng có thể của các yếu tố biểu sinh trong sự phát triển của tim.

#khuyết tật tim bẩm sinh #sinh đôi #yếu tố di truyền #yếu tố biểu sinh #dị tật tim mạch
Vách giữa tâm nhĩ trong siêu âm B‐mode và siêu âm tim thông thường ‐ một dấu hiệu cho chẩn đoán bệnh tim bẩm sinh Dịch bởi AI
Journal of Clinical Ultrasound - Tập 3 Số 1 - Trang 29-37 - 1975
Abstract

Vách giữa tâm nhĩ đã được nghiên cứu bằng siêu âm B‐mode nhằm xác định xem có những đặc điểm siêu âm đặc trưng nào liên quan đến các bệnh tim bẩm sinh như thông liên nhĩ và khiếm khuyết đệm nội tâm mạc hay không. Trong các lớp cắt ngang ở không gian liên sườn thứ ba và thứ tư, vách giữa tâm nhĩ được phát hiện gần như song song với tường ngực trước. Vách này tiếp tục hướng sang trái đến tiếng vang của lá van trước của van hai lá. Khi vách giữa tâm nhĩ mở rộng vượt qua bờ ức trái, nó cũng có thể được ghi nhận gần bờ ức trái trong lớp cắt đứng. Vách giữa tâm nhĩ cũng có thể được ghi nhận bằng siêu âm tim thông thường. Hình dạng có dạng sóng và đồng bộ với nhịp tim với biên độ khoảng 10 mm. Nó được nhìn thấy gần tường ngực ở những bệnh nhân có sự giãn nở nhĩ trái và xa tường ngực ở những bệnh nhân có sự giãn nở nhĩ phải. Khiếm khuyết trong vách giữa tâm nhĩ đã được quan sát bằng siêu âm B‐mode và siêu âm tim thông thường ở những bệnh nhân có thông liên nhĩ kiểu ostium secundum. Các khiếm khuyết đã không còn được phát hiện sau khi phẫu thuật.

Pseudoaneurysm của mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ sau chấn thương ngực và được chẩn đoán bằng cộng hưởng từ tim: một báo cáo trường hợp Dịch bởi AI
Journal of Medical Case Reports - - 2012
Tóm tắt Giới thiệu

Pseudoaneurysm vòng quanh van là một loại giãn mạch hiếm gặp của động mạch chủ trái, chủ yếu được mô tả ở người trẻ tuổi gốc Phi. Những giãn mạch này được chia thành hai loại khác nhau, đó là loại dưới van hai lá hoặc dưới động mạch chủ, trong đó loại dưới động mạch chủ là ít gặp hơn. Loại dưới động mạch chủ thường được định vị ở mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ. Theo kiến thức tốt nhất của chúng tôi, đây là báo cáo đầu tiên về pseudoaneurysm ở mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ liên quan đến hẹp động mạch chủ, hồi lưu tĩnh mạch phổi bất thường, van động mạch chủ hai lá và ống động mạch vẫn thông được chẩn đoán bằng cộng hưởng từ tim mạch.

Trình bày trường hợp

Chúng tôi báo cáo trường hợp của một cậu bé 15 tuổi gốc Phi–Mỹ có tiền sử chấn thương ngực nhẹ, được tiến hành đánh giá siêu âm tim như một phần trong quá trình khám ngoại trú. Kết quả siêu âm tim nghi ngờ sự hiện diện của pseudoaneurysm mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ, do đó cộng hưởng từ tim mạch được thực hiện để làm rõ hơn phát hiện này. Ngoài việc xác nhận sự hiện diện của giãn mạch, cộng hưởng từ tim mạch cũng cho thấy có hẹp động mạch chủ, van động mạch chủ hai lá, và hồi lưu tĩnh mạch phổi bất thường.

#pseudoaneurysm #mô liên kết giữa van hai lá và động mạch chủ #chấn thương ngực #cộng hưởng từ tim mạch #dị tật bẩm sinh #hồi lưu tĩnh mạch phổi bất thường
Đảm bảo chất lượng nội bộ trong phẫu thuật tim – Những phát triển tại Münster Dịch bởi AI
Zeitschrift für Herz-, Thorax- und Gefäßchirurgie - - 1998
Đảm bảo chất lượng nội bộ (QS) trong y tế là một phương pháp không thể thiếu để bảo đảm và cải thiện chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Tại Khoa và Phòng khám Phẫu thuật lồng ngực, tim mạch và mạch máu của Đại học Westfälische Wilhelms-Universität Münster, một chương trình đảm bảo chất lượng toàn diện đã được thiết lập từ năm 1990. Hàng năm, hơn 2500 ca phẫu thuật được thực hiện, trong đó có 1400 ca dưới sự hỗ trợ của máy tim phổi. Phạm vi phẫu thuật bao gồm toàn bộ lĩnh vực phẫu thuật tim, lồng ngực và mạch máu, bao gồm cả các ca cấy ghép nội tạng lồng ngực cũng như việc sửa chữa các dị tật tim bẩm sinh nghiêm trọng. Bài viết này sẽ báo cáo về phương pháp cũng như kinh nghiệm trong quá trình đảm bảo chất lượng nội bộ.
#đảm bảo chất lượng #phẫu thuật tim #y tế #phẫu thuật lồng ngực #mạch máu #cấy ghép nội tạng #dị tật bẩm sinh
Tuần hoàn Fontan sau nửa thế kỷ
   Tim một thất chức năng đã được mô tả từ cuối thế kỷ XVII. Đây là một nhóm bệnh tim bẩm sinh đặc biệt cả về sự phức tạp, tính đa dạng về tổn thương giải phẫu cũng như những biến đổi về huyết động và sinh lý tim mạch. Phẫu thuật Fontan được thực hiện lần đầu tiên vào năm 1968, cách nay đúng nửa thế kỷ, có thể được xem như một cuộc cách mạng trong phẫu thuật tim mạch. Phẫu thuật Fontan cùng với những cải tiến về kỹ thuật, can thiệp, điều trị nội khoa cũng như những kiến thức mới về sinh lý tuần hoàn Fontan đã cải thiện một cách rõ rệt tiên lượng của bệnh nhân mắc bệnh tim một thất chức năng, kéo dài tuổi thọ, giảm biến chứng, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy vậy BN Fontan vẫn được xem là nhóm bệnh suy tim còn bù và có thể chuyển sang mất bù vào bất cứ lúc nào. Những biến chứng của tuần hoàn Fontan vẫn luôn đặt ra những thách thức không nhỏ cho thầy thuốc lâm sàng. Bài viết này sẽ điểm qua những cột mốc lịch sử quan trọng trong phẫu thuật và can thiệp tuần hoàn Fontan, sơ bộ nêu lên những thể giải phẫu, sinh lý tim một thất, chiến lược tiếp cận bệnh tim một thất chức năng, những biến chứng của tuần hoàn Fontan và những triển vọng điều trị trong tương lai.
#tuần hoàn Fontan #tim một thất #tim bẩm sinh #phẫu thuật tim
Đánh giá kết quả phẫu thuật triệt để tứ chứng Fallot tại bệnh viện tim Hà Nội giai đoạn 2011-2015
155 bệnh nhân, tuổi trung bình 9,88 (0,41- 54t); tỷ lệ miếng vá xuyên vòng van 38,7%; chênh áp thất phải – động mạch phổi sau mổ 18,87 ±11,60 mmHg; tỷ lệ áp lực tối đa thất phải/thất trái 0,57± 0,16. Biến chứng sau mổ 20,6%. Tỷ lệ mổ lại sớm 2,56%.Tỷ lệ tử vong tại viện 1,29%. Sau mổ 6 tháng (153 bệnh nhân): tỷ lệ mổ lại 0%, tử vong 0%. Sau mổ 3 năm (60 bệnh nhân): mổ lại 0,65%, tử vong 0%; không có sự thay đổi về: chỉ số giãn thất phải, chênh áp thất phải- động mạch phổi, thời gian QRS. Kết quả phẫu thuật triệt để tứ chứng Fallot theo phương pháp không mở thất phải tại Bệnh viện Tim Hà Nội là khả quan với tỷ lệ tử vong thấp.
#Tứ chứng Fallot #sửa triệt để #bệnh tim bẩm sinh.
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT FONTAN CHO CÁC BỆNH TIM BẨM SINH PHỨC TẠP CHỈ CÓ MỘT TÂM THẤT CHỨC NĂNG TẠI VIỆN TIM TPHCM
Từ tháng 02/2007 đến 06/2014, 37 bệnh nhân được thực hiện phẫu thuật Fontan, tuổi trung vị là 13 tuổi(4-28 tuổi), nam có 26 bệnh nhân. Tất cả các bệnh nhân có nhịp xoang trước mổ. Ap lực động mạch phổi trung bình là 14 ± 2 mmHg(11 – 16 mmHg). 35 bệnh nhân dược dùng ống ghép nhân tạo (ống Dacron hoặc Goretex ) và 2 bệnh nhân được nối trực tiếp TMC dưới với ĐMP. Tử vong 30 ngày sau mổ là 5.4 % (2 trường hợp ). Có sự cải thiện có ý nghĩa về độ bão hòa oxy (SPO2) trung bình sau mổ là 95 ± 3.6% so với trước mổ là 76 ± 5.7 %(p < 0.01). Biến chứng thường gặp nhất là tràn dịch màng phổi. 35 bệnh nhân được tiếp tục theo dõi chỉ có 1 trường hợp tử vong muộn 12 tháng sau mổ do huyết khối làm tắt đường dẫn máu lên phổi.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT SỬA CHỮA TOÀN BỘ TỨ CHỨNG FALLOT Ở TRẺ EM DƯỚI 12 THÁNG TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Nhằm đánh giá kết quả ngắn hạn sau phẫu thuật triệt để tứ chứng Fallt trẻ nhũ nhi. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu. Kết quả: Kết quả đánh giá trên 19 bệnh nhân nam giới và 13 bệnh nhân nữ, các đối tượng nghiên cứu dưới 12 tháng tuổi. Đánh giá độ bão hòa oxy máu ngoại biên (SpO2) trung bình 79,72 ± 12,28%, thấp nhất là 46% và cao nhất 98%. Trong đó với 13 trường hợp (40,6%) có SpO2 <80%. Đánh giá kết quả sau mổ ghi nhận 4 trường hợp hở van động mạch phổi nhẹ, 9 trường hợp hở trung bình và 10 trường hợp hở nặng. Các biến chứng sau mổ gồm viêm phổi (6 trường hợp), Suy hô hấp do hẹp khí quản/tạo hình khí quản slideplasty (1 trường hợp) và 2 trường hợp có nhiễm trùng vết mổ. Có 1 trường hợp tử vong trong bệnh cảnh suy tim, viêm phổi. Kết luận: Thực hiện phẫu thuật tiếp cận qua đường nhĩ phải và động mạch phổi với chiến lược bản tồn van động mạch phổi và mở rộng vòng van tối thiểu được thực hiện một cách dễ dàng và thuận lợi cho tất cả bệnh nhân tứ chứng Fallot. Kết quả phẫu thuật tốt, tỉ lệ bảo tồn vòng van động mạch phổi khá cao, tỉ lệ biến chứng trong giai đoạn hồi sức và theo dõi ngắn hạn sau mổ thấp và có 1 trường hợp tử vong sau mổ.
#Tứ chứng Fallot #bệnh tim bẩm sinh
Đánh giá kết quả phẫu thuật triệt để tứ chứng Fallot tại Bệnh viện Tim Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật triệt để tứ chứng Fallot tại Bệnh viện Tim Hà Nội. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứu. Tất cả bệnh nhân được phẫu thuật theo phương pháp không mở thất phải. Kết quả: 155 bệnh nhân, tuổi trung bình 9,88 (0,41 - 54); tỷ lệ miếng vá xuyên vòng van 38,7%; chênh áp thất phải - động mạch phổi sau mổ 18,87 ± 11,60mmHg; tỷ lệ áp lực tối đa thất phải/thất trái 0,57 ± 0,16. Biến chứng sau mổ 20,6%. Tỷ lệ mổ lại sớm 2,56%. Tỷ lệ tử vong tại viện 1,29%. Sau mổ 6 tháng (153 bệnh nhân): Tỷ lệ mổ lại 0%, tử vong 0%. Sau mổ 3 năm (60 bệnh nhân): Mổ lại 0,65%, tử vong 0%; không có sự thay đổi về: Chỉ số giãn thất phải, chênh áp thất phải - động mạch phổi, thời gian QRS. Kết luận: Kết quả phẫu thuật triệt để tứ chứng Fallot theo phương pháp không mở thất phải tại Bệnh viện Tim Hà Nội là khả quan với tỷ lệ tử vong thấp.
#Tứ chứng Fallot #sửa triệt để #bệnh tim bẩm sinh
Tổng số: 105   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10